Làm Quốc vương Quang Hải quân

Thanh trừng anh ruột

Ngày 16 tháng 3 năm 1608, Triều Tiên Tuyên Tổ qua đời. Liễu Vĩnh Khánh bí mật đến gặp Vương phi thuyết phục bà đứng ra buông rèm nhiếp chính và lập Vĩnh Xương Đại quân lên ngôi, còn bản thân Liễu sẽ là phụ chính. Tuy nhiên Vương phi nhận thấy việc đó không thực tế nên đã tuyên bố chiếu thư thật. Thế tử Hồn sau đó cho giết Liễu Vĩnh Khánh và sai sứ đến nhà Minh thỉnh phong nhưng bị người Trung Quốc cự tuyệt và có những hành động điều động quân lực ở biên giới[13][17]. Sứ giả Triều Tiên là Lý Mẫn Thanh nói dối rằng do Lâm Hải quân có bệnh thần kinh nên tự nguyện nhường ngôi cho em trai, nhà Minh bèn sai người đến Hán Thành gặp Lâm Hải quân để kiểm chứng, mà Lâm Hải quân khi gặp sứ thần đã nói rằng mình bị soán ngôi vua và đã lên tiếng lăng mạ Quang Hải Quân[18]. Triều đình Triều Tiên bèn dùng tiền để hối lộ sứ thần, do đó việc được trót lọt. Năm 1609, vua Vạn Lịch nhà Minh sai sứ đến phong cho Lý Hồn làm Triều Tiên quốc vương, ban thụy cho Tuyên Tổ là Chiêu Kính[17].

Qua sự việc này, Quang Hải quân nhận định rằng nếu để Lâm Hải quân còn sống thì sẽ có một ngày nguy hại đến đế vị của mình. Không lâu sau đó có tấu thỉnh từ các quan tam ti hặc tội Lâm Hải quân. Quang Hải quân giả vờ không tin, nhưng vẫn sai người trong Tam ti (Hoằng Văn quán, Ti Hiến phủ, Ti Gián viện) thẩm vấn, rồi lấy 4 tội danh "tư tàng vũ khí, bí mật nuôi dũng sĩ, và âm mưu làm đảo chính trong ngày vua Tuyên Tổ mất, và đeo vũ khí vào cung" mà lưu đày Lâm Hải quân[19].

Sau đó có rất nhiều tấu xin xử tử Lâm Hải quân, song nhà vua giả vờ từ chối. Cùng năm đó, Lâm Hải quân bị người canh giữ là Lý Đình Bưu sát hại ở nơi lưu đày[20]. Nhà vua tuy tỏ vẻ đau xót nhưng trên thực tế lại không trị tội Lý Đình Bưu mà chỉ yêu cầu anh ta khai báo những chuyện đã xảy ra[17], điều này đã chứng minh rằng nhà vua chính là người chủ mưu thực sự[Ghi chú 4].

Năm 1611, Trịnh Nhân Hoằng, người đứng đầu Đại Bắc Nhân, phản đối việc tu sửa miếu thờ của hai học giả là Lý Ngạn ĐịchLý Hoảng, các Nho sinh trong triều đã cùng nhau xóa tên Nhân Hoằng khỏi danh sách các Nho sinh. Đáp lại Quang Hải quân đã đuổi cổ tất cả Nho sinh khỏi Thành Quân Quán. Việc này khiến ông mất lòng giới Nho sinh ngay từ những năm đầu trị vì.

Giết em giam mẹ

Cuộc thanh trừng thứ hai diễn ra vào tháng 4 năm 1613, mục tiêu lần này là Đại phi (tức Thái hậu) họ Kim và Vĩnh Xương Đại quân. Lúc này một bộ phận quý tộc là con em của phái Tây Nhân[21][Ghi chú 5] bị truy tố về tội cướp của và giết người, một trong số họ đã khai rằng mục đích của mình là ủng hộ Vĩnh Xương Đại quân soán vị[21]. Đảng tranh từ đó được dịp nổi lên, và Đại phi họ Kim đang ở trong cung cũng phải gặp họa. Một nội quan là Phác Đông Lượng khai nhận khi vua Tuyên Tổ bệnh nguy, có cung nữ trong cung của Vương phi dùng tà thuật để kèo dài mạng sống của tiên vương[22]. Sau đó người cung nữ khai kẻ chủ mưu là Kim Đễ Nam, tức cha ruột của Đại phi họ Kim, với mục đích đưa cháu ngoại Vĩnh Xưong Đại quân lên ngai vàng. Ngay lập tức sau đó, những lời buộc tội mẹ con Vĩnh Xương Đại quân bắt đầu xuất hiện[22].

Khi đó triều đình chia ra 2 phe ủng hộ và phản đối việc xét xử Kim Đại phi (và sau này cộng với việc Quang Hải quân ra tay với những người can gian, mà lại phát triển thành 2 phe ủng hộ và phản đối Quang Hải quân). Sau khi thay thế các đài quan bằng người của mình (gồm Đại tư gián Tống Thuần và Đại tư hiến Lý Xung đều thuộc phe Đại Bắc Nhân), nhà vua đã thành cônng chặn họng những người can gián. Ngày 11 tháng 9 năm 1613[7], ông lưu đày Vĩnh Xương Đại quân đến đảo Giang Hoa rồi dùng lại kế sách từng áp dụng với Lâm Hải quân mà trừ khử người em này[23]. Ngày 21 tháng 2 năm 1614[7], Kim Đễ Nam cũng bị xử tử với tội danh phản nghịch[24].

Từ năm 1614 đến 1617, triều đình xảy ra 3 vụ tranh cãi liên quan đến Đại phi họ Kim. Lần thứ nhất vào ngày 30 tháng 3 năm 1614, danh nho phái Đại Bắc Nhân Trịnh Uẩn chỉ trích Quang Hải quân là: bất nghĩa (giết hại anh em), bất hiếu (giam cầm mẹ đích) và mượn đao giết người[25]. Sau đó Quang Hải quân liền lũ lượt thay chức các Đài quan để chặn dư luận. Đến ngày 4 tháng 3 năm 1615[7], Lý Nguyên Dực của phái Nam Nhân dâng thư xin Quang Hải quân dừng lại ngục sự Quý Dậu, sau đó Nguyên Dực bị lưu đày[26][27]. Sự kiện này khiến giới Nho lâm bất mãn, liên danh kháng nghị. Quang Hải quân bèn dùng biện pháp giết chết hoặc lưu đày những người cầm đầu. Hai năm sau đó, triều đình đã nổ ra tranh cãi nảy lửa nhất về tội của Kim Đại phi.

Trước đó năm 1610, Quang Hải Quân truy tôn mẹ ruột là Cung tần họ Kim làm Cung Thánh vương hậu, dời linh vị vào Thái miếu[28]. Điều này trái với quy định trong vương thất, vốn không có chuyện truy phong hậu cung làm vương hậu dù cho người đó có sinh ra vua kế vị đi chăng nữa. Ngày 18 tháng 9 năm 1617, sau nhiều lần thỉnh cầu từ phía Triều Tiên, nhà Minh ban mũ miện cho Cung Thánh vương hậu, đem bà trở thành Kế phi thứ hai của Tuyên Tổ sau Ý Nhân vương hậu[29]. Điều này dẫn tới 2 hậu quả: Đại phi Kim thị bị giáng xuống làm Kế phi thứ 3, và Quang Hải quân trở thành Đích tử danh chính ngôn thuận. Bấy giờ giả sử mà nhà vua có muốn xử tội Đại phi thì cũng không bị nói là bất hiếu nữa[Ghi chú 6].

20 ngày sau đó, nhà vua bí mật sai người tróc nã chú của Kim Đại phi là Kim Quý Nam[30]. Rồi có biểu của nho sinh Hàn Phụ Cát yêu cầu phế truất Kim Đại phi, mà Lãnh nghị chánh khi đó là Kỳ Tự Hiến đã dâng sớ phản đối. Quang Hải quân ra chiếu cho giới quý tộc bày tỏ quan điểm của mình. Hơn 1100 quý tộc lưỡng ban, bao gồm cả các thành viên trong hoàng tộc họ Lý, đều từ chối bình luận về việc này. Có 7 người công khai bảo vệ Đại phi, và 50 người chống lại bà, chủ yếu thuộc phe Đại Bắc nhân. Quang Hải quân bèn lưu đày những người bảo vệ, trong một động thái gọi là giết gà dọa khỉ. Kết quả không còn ai phản đối nữa, và ngày 22 tháng 2 năm 1618[7], Quang Hải quân cho giam lỏng Đại phi, đối xử với bà chỉ như một Hậu cung của tiên vương và gọi là Tây cung[31].

Năm 1615, có lời đồn trong cung điện rằng Lăng Xương quân Lý Thuyên[32], cháu nội vua Tuyên Tổ và là cháu gọi nhà vua bằng bác (cũng là em trai vua Nhân Tổ sau này) có mưu đồ thoán ngôi. Lăng Xương quân được sử sách đánh giá là một người thông minh và phi phàm, nên rất bị nhà vua và phái Đại Bắc nhân dè chừng. Ngày 14 tháng 8 năm đó, Thân Cảnh Hi tiến cử Lăng Xương quân lên tước Đại quân, lập tức phe Đại Bắc Nhân do Tô Minh Quốc dẫn đầu nhảy vào công kích. Ngày 22 tháng 8, Nhà vua lệnh đày Lăng Xương quân ra đảo Giang Hoa và xử tử Thân Cảnh Hi, trong khi những người đồng mưu bị lưu đày. Biết khó thoát khỏi cái chết nên vào ngày 17 tháng 11, Lăng Xương quân tự sát ở nơi lưu đày[33][34].

Những sự kiện khác

Đối nội

Mặc dù bị danh tiếng xấu trong thời gian sau này, nhưng Quang Hải Quân là một nhà chính trị có tài và thực tế. Ông đã nỗ lực trong việc khôi phục đất nước và bảo trợ cho việc phục hồi các thư tịch. Như một phần của công cuộc tái thiết, ông đã sửa đổi pháp lệnh về đất đai và chia lại đất cho dân chúng. Năm 608, ông ra lệnh xây dựng lại Xương Đức cung cùng với một số cung điện khác. Trong quá trình xây dựng và tu sửa các cung điện trên ông đã cho huy động quá nhiều nhân lực nên bị nhân dân oán thán, thế nhưng trong hoàn cảnh lúc bấy giờ thì đó là việc không thể tránh khỏi. Bởi vì các cung điện hầu như đã bị phá hoại hoàn toàn trong Nhâm Thìn Oa loạn nên mọi việc nghị sự triều chính đều phải tiến hành tạm bợ phủ Nguyệt Sơn quân (anh trai vua Triều Tiên Thành Tông)[35].Ngoài ra, ông cũng cho lập lại hệ thống nhận dạng hopae (tương tự chứng minh nhân dân hiện nay) sau một thời gian dài không sử dụng[36].

Trong thời gian cầm quyền, Quang Hải Quân khuyến khích xuất bản nhằm đẩy nhanh và tái thiết để khôi phục lại sự thịnh vượng như trước. Nhiều cuốn sách ra đời trong triều đại của ông, đặc biệt nhất là tác phẩm Đông Y Bảo Giám (Tongŭi Pogam, 동의보감), tác phẩm của thần y Hứa Tuấn. Nhiều bộ sử ký cũng được viết lại trong thời kỳ này. Ông cũng ban hành luật Daedong, theo đó cho phép người dân chế độ thuế khóa dễ dàng hơn. Tuy nhiên dưới thời của ông, hệ thống này chỉ có hiệu lực ở đất Gyeonggi, nơi có vựa lúa lớn nhất của đất nước, và phải 100 năm sau mới mở rộng cho toàn vương quốc. Năm 1616, thuốc lá lần đầu tiên được truyền bá tới Hàn Quốc và nhanh chóng được phổ biến trong giới quý tộc.

Đối ngoại

Năm 1616 ở đất Mãn Châu, Nỗ Nhĩ Cáp Xích thống nhất các bộ lạc Nữ Chân, xưng Hãn ở Hách Đồ A Lạp (Thịnh Kinh), lập ra nước Hậu Kim, tiền thân của nhà Thanh sau này. Hậu Kim và nhà Minh ở Trung Quốc nhanh chóng rơi vào thế đối đầu gay gắt. Quang Hải quân nhận thức được rằng Triều Tiên không có khả năng để có thể tấn công Mãn Châu, nhà vua đã giữ quan hệ với Mãn Châu dù vẫn ở dưới quyền bá chủ của nhà Minh. Ông cũng khôi phục quan hệ thương mại với Nhật Bản với Hiệp ước năm 1609 và gửi sứ thần sang triều kiến Mạc phủ Tokugawa vào năm 1617.

Do tư tưởng chủ hòa của Quang Hải quân khiến ông lâm vào thế đối đầu với các sĩ đại phu thân Minh. Trong vòng 5 năm từ 1618 đến 1623, quan hệ vua - tôi căng thẳng chủ yếu quanh sự kiện này.

Mùa hạ năm 1618, Triều Tiên nhận được 3 bức thư từ Chỉ huy sứ Liêu Đông Khâu Thản và Chỉ huy sứ Quảng Ninh Uông Khả Thụ yêu cầu chi viện quân lính chống Kim, đại đa số quan viên đề nghị lập tức xuất binh, nhưng Quang Hải quân phản đối. Trong triều chỉ có 7 viên quan là ủng hộ nhà vua, nhưng sau đó bị áp lực từ những người còn lại mà họ cũng không giữ vững được lập trường. Quang Hải quân liên tiếp tìm cớ trì hoãn cho đến khi Hoàng đế Vạn Lịch gửi thư trách cứ thì ông mới miễn cưỡng xuất binh.

Trong những năm Nhâm Thìn Oa loạn, Quang Hải quân là người trực tiếp tham chiến cùng với các tướng nhà Minh, nên ông khá rõ ràng thực lực của quân Minh. Ông đoán biết rằng nhà Minh sẽ thất bại trước người Kim[37][38]. Do đó ông chủ trương không giúp nhà Minh là để bảo toàn đất nước khỏi cơn thịnh nộ của Nỗ Nhĩ Cáp Xích. Tuy nhiên các sĩ đại phu vẫn mang ơn nhà Minh đã cứu Triều Tiên khỏi sự xâm lăng của người Nhật, nên họ rất phản đối những hành động trao đổi thư tín với Hậu Kim, và từ đó lại càng ác cảm với Quang Hải quân.

Mùa xuân năm 1619, 13000 quân Triều Tiên qua sống Áp Lục tới Liêu Đông hỗ trợ nhà Minh, rồi bị quân Kim đánh cho tan tác ở trận Thâm Hà, chỉ huy sứ Khương Hoằng Lập cùng 3000 người bị bắt. Nỗ Nhĩ Cáp Xích không chủ trương chiến tranh với Triều Tiên vì còn dồn lực đánh Minh, ông ta sai sứ đến bày tỏ thái độ ôn hòa, và đề nghị cùng nhau chống Minh. Đến năm 1621, người Kim công đánh Liêu Dương và Thẩm Dương, cắt đường giao thông trên bộ giữa Trung Quốc với Triều Tiên, rồi Nỗ Nhĩ Cáp Xích lại sai sứ đề nghị hợp tác. Triều đình Triều Tiên cũng có 2 phe ủng hộ và phản đối liên minh. Cuối cùng hai bên thương lượng với nhau, tạm thời đình chỉ các hoạt động quân sự giúp đỡ bất kỳ phe nào, và Triều Tiên đã tránh được xung đột với Hậu Kim trong một vài năm sau đó.

Đối với trận thua năm 1619, nhà Minh không trách cứ Triều Tiên mà còn tặng 1 vạn lượng tiền để an ủi[39]. Về sau, nhà Minh nhiều lần tặng tiền để yêu cầu phía Triều Tiên gửi quân sang tiếp, nhưng Quang Hải quân trước sau đều tìm cớ trì hoãn, và các sứ thần nhà Minh đều tay không trở về. Đến sau này, nhà vua thậm chí công khai không tiếp chỉ của Thiên tử nhà Minh[40] Điều này khiến những người trong Bị biên ti vốn thân Minh ngày càng bất mãn. Đến cuối năm 1622, họ cảnh cáo nhà vua bằng cách dâng tôn hiệu có các chữ "Kiến Nghĩa Thủ Chánh Cương Đạo Sùng Nghiệp", trong đó "Nghĩa", "Chánh", "Đạo" ám chỉ đạo nghĩa của Triều Tiên thờ nhà Minh[40]. Những ngày tiếp đó quần thần cứ lũ lượt tấu thỉnh theo kiểu bức cung như vậy cho đến tận khi Quang Hải quân chính thức bị phế truất[41].

Trong tư tưởng Nho giáo đã thâm căn đế cố trong giới Nho sĩ Triều Tiên, họ coi Thiên tử là Minh là vua, là cha, lại là người có ơn cứu mạng. Dù Quang Hải quân có tài nhìn xa mà thấy trước thất bại của nhà Minh, nên có những quyết sách bảo toàn cho đất nước, nhưng điều này đã khiến ông bị cô lập, bị coi là kẻ bội bạc, thậm chí người ta còn bày tỏ thái độ thà làm mít lòng nhà vua chứ không đắc tội Thiên tử[42]. Nguy cơ về một cuộc đảo chính đã đến rất gần.